Cơ hội mới cho phát triển thủy điện trong hệ thống điện mới

Phát điện thủy điện là một trong những phương pháp phát điện trưởng thành nhất, liên tục đổi mới và phát triển trong quá trình phát triển của hệ thống điện. Đã có những tiến bộ đáng kể về quy mô độc lập, trình độ trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ điều khiển. Là nguồn điện ổn định, đáng tin cậy, chất lượng cao, thủy điện thường bao gồm các nhà máy thủy điện thông thường và nhà máy thủy điện tích năng. Ngoài việc đóng vai trò là nguồn cung cấp điện quan trọng, chúng còn đóng vai trò quan trọng trong việc cắt đỉnh, điều chế tần số, điều chế pha, khởi động đen và chế độ chờ khẩn cấp trong toàn bộ quá trình vận hành hệ thống điện. Với sự phát triển nhanh chóng của các nguồn năng lượng mới như điện gió và phát điện quang điện, sự gia tăng chênh lệch đỉnh-thung lũng trong hệ thống điện và sự giảm quán tính quay do sự gia tăng của thiết bị và thiết bị điện tử công suất, các vấn đề cơ bản như quy hoạch và xây dựng hệ thống điện, vận hành an toàn và điều độ kinh tế đang phải đối mặt với những thách thức to lớn, đồng thời cũng là những vấn đề lớn phải giải quyết trong quá trình xây dựng hệ thống điện mới trong tương lai. Trong bối cảnh nguồn tài nguyên của Trung Quốc, thủy điện sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong loại hình hệ thống điện mới, đứng trước nhu cầu và cơ hội phát triển đổi mới to lớn, đồng thời rất quan trọng đối với an ninh kinh tế khi xây dựng loại hình hệ thống điện mới.

Phân tích tình hình hiện tại và tình hình phát triển đổi mới của sản xuất thủy điện
Tình hình phát triển đổi mới
Chuyển đổi năng lượng sạch toàn cầu đang tăng tốc và tỷ lệ năng lượng mới như điện gió và điện mặt trời đang tăng nhanh chóng. Việc lập kế hoạch và xây dựng, vận hành an toàn và lập lịch kinh tế của các hệ thống điện truyền thống đang phải đối mặt với những thách thức và vấn đề mới. Từ năm 2010 đến năm 2021, lắp đặt điện gió toàn cầu duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, với tốc độ tăng trưởng trung bình là 15%; Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm tại Trung Quốc đã đạt 25%; Tốc độ tăng trưởng lắp đặt điện mặt trời toàn cầu trong 10 năm qua đã đạt 31%. Hệ thống điện có tỷ lệ năng lượng mới cao đang phải đối mặt với những vấn đề lớn như khó khăn trong việc cân bằng cung cầu, khó khăn gia tăng trong việc kiểm soát vận hành hệ thống và rủi ro về tính ổn định do quán tính quay giảm và nhu cầu công suất cắt đỉnh tăng đáng kể, dẫn đến chi phí vận hành hệ thống tăng. Việc chung tay thúc đẩy giải quyết những vấn đề này từ phía cung cấp điện, lưới điện và phụ tải là hết sức cấp thiết. Phát điện thủy điện là nguồn điện được điều tiết quan trọng với các đặc điểm như quán tính quay lớn, tốc độ phản ứng nhanh và chế độ vận hành linh hoạt. Nó có những lợi thế tự nhiên trong việc giải quyết những thách thức và vấn đề mới này.

Mức độ điện khí hóa tiếp tục được cải thiện, và các yêu cầu về cung cấp điện an toàn và đáng tin cậy từ các hoạt động kinh tế và xã hội tiếp tục tăng. Trong 50 năm qua, mức độ điện khí hóa toàn cầu tiếp tục được cải thiện và tỷ lệ điện năng trong mức tiêu thụ năng lượng đầu cuối đã tăng dần. Sự thay thế năng lượng điện đầu cuối được đại diện bởi xe điện đã tăng tốc. Xã hội kinh tế hiện đại ngày càng phụ thuộc vào điện và điện đã trở thành phương tiện sản xuất cơ bản cho các hoạt động kinh tế và xã hội. Cung cấp điện an toàn và đáng tin cậy là sự đảm bảo quan trọng cho sản xuất và đời sống của con người hiện đại. Mất điện trên diện rộng không chỉ gây ra thiệt hại kinh tế lớn mà còn có thể gây ra sự hỗn loạn xã hội nghiêm trọng. An ninh điện đã trở thành nội dung cốt lõi của an ninh năng lượng, thậm chí là an ninh quốc gia. Dịch vụ bên ngoài của các hệ thống điện mới đòi hỏi phải liên tục cải thiện độ tin cậy của nguồn cung cấp điện an toàn, trong khi sự phát triển bên trong đang phải đối mặt với sự gia tăng liên tục các yếu tố rủi ro gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh điện.

Các công nghệ mới tiếp tục xuất hiện và ứng dụng trong hệ thống điện, cải thiện đáng kể mức độ thông minh và phức tạp của hệ thống điện. Việc ứng dụng rộng rãi các thiết bị điện tử công suất trong nhiều khía cạnh của quá trình phát điện, truyền tải và phân phối điện đã dẫn đến những thay đổi đáng kể về đặc điểm tải và đặc điểm hệ thống của hệ thống điện, dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong cơ chế vận hành của hệ thống điện. Công nghệ thông tin liên lạc, điều khiển và thông minh được sử dụng rộng rãi trong mọi khía cạnh của sản xuất và quản lý hệ thống điện. Mức độ thông minh của hệ thống điện đã được cải thiện đáng kể và chúng có thể thích ứng với phân tích trực tuyến quy mô lớn và phân tích hỗ trợ quyết định. Phát điện phân tán được kết nối với phía người dùng của mạng lưới phân phối trên quy mô lớn và hướng dòng điện của lưới điện đã thay đổi từ một chiều thành hai chiều hoặc thậm chí là đa hướng. Nhiều loại thiết bị điện thông minh đang xuất hiện theo dòng chảy vô tận, đồng hồ đo thông minh được sử dụng rộng rãi và số lượng thiết bị đầu cuối truy cập hệ thống điện đang tăng theo cấp số nhân. An ninh thông tin đã trở thành một nguồn rủi ro quan trọng đối với hệ thống điện.

Cải cách và phát triển điện lực đang dần đi vào tình hình thuận lợi, môi trường chính sách như giá điện đang dần được cải thiện. Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và xã hội Trung Quốc, ngành điện lực đã có bước nhảy vọt từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, từ đi sau đến dẫn đầu. Về mặt hệ thống, từ chính phủ đến doanh nghiệp, từ một nhà máy đến một mạng lưới, đến việc tách biệt các nhà máy và mạng lưới, cạnh tranh vừa phải và dần chuyển từ kế hoạch sang thị trường đã dẫn đến con đường phát triển điện lực phù hợp với điều kiện quốc gia của Trung Quốc. Năng lực sản xuất và xây dựng và trình độ công nghệ và thiết bị điện của Trung Quốc được xếp vào hàng ngũ hạng nhất thế giới. Các chỉ số dịch vụ và môi trường phổ cập cho hoạt động kinh doanh điện lực đang dần được cải thiện, và hệ thống điện lực lớn nhất và tiên tiến nhất về mặt công nghệ đã được xây dựng và vận hành. Thị trường điện lực của Trung Quốc đã không ngừng tiến triển, với con đường rõ ràng để xây dựng thị trường điện thống nhất từ ​​cấp địa phương đến cấp khu vực đến cấp quốc gia và đã tuân thủ đường lối của Trung Quốc là tìm kiếm sự thật từ thực tế. Các cơ chế chính sách như giá điện đã dần được hợp lý hóa và cơ chế giá điện phù hợp với phát triển năng lượng tích trữ đã được thiết lập bước đầu, tạo môi trường chính sách để hiện thực hóa giá trị kinh tế của đổi mới và phát triển thủy điện.

Đã có những thay đổi đáng kể trong các điều kiện ranh giới cho quy hoạch, thiết kế và vận hành thủy điện. Nhiệm vụ cốt lõi của quy hoạch và thiết kế nhà máy thủy điện truyền thống là lựa chọn quy mô và chế độ vận hành nhà máy điện khả thi về mặt kỹ thuật và hợp lý về mặt kinh tế. Thường là xem xét các vấn đề quy hoạch dự án thủy điện theo tiền đề mục tiêu tối ưu là sử dụng toàn diện các nguồn tài nguyên nước. Cần phải xem xét toàn diện các yêu cầu như kiểm soát lũ lụt, tưới tiêu, vận chuyển và cung cấp nước, đồng thời tiến hành so sánh toàn diện các lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường. Trong bối cảnh liên tục có những đột phá về công nghệ và tỷ lệ điện gió và điện mặt trời liên tục tăng, hệ thống điện cần phải tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên thủy lực, làm giàu chế độ vận hành của các nhà máy thủy điện và đóng vai trò lớn hơn trong việc cắt đỉnh, điều chế tần số và điều chỉnh san lấp mặt bằng. Nhiều mục tiêu trước đây không khả thi về mặt công nghệ, thiết bị và xây dựng đã trở nên khả thi về mặt kinh tế và kỹ thuật. Chế độ một chiều tích nước và phát điện xả cho các nhà máy thủy điện ban đầu không còn đáp ứng được yêu cầu của hệ thống điện mới, cần kết hợp chế độ nhà máy điện tích năng để cải thiện đáng kể năng lực điều tiết của các nhà máy thủy điện; Đồng thời, xét đến những hạn chế của các nguồn điện điều tiết ngắn hạn như nhà máy điện tích năng trong việc thúc đẩy tiêu thụ các nguồn năng lượng mới như điện gió và điện mặt trời, và khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ cung cấp điện an toàn và giá cả phải chăng, cần phải tăng dung tích hồ chứa để cải thiện chu kỳ thời gian điều tiết của thủy điện thông thường, nhằm lấp đầy khoảng trống về năng lực điều tiết hệ thống xảy ra khi ngừng sử dụng điện than.

Nhu cầu phát triển đổi mới
Có nhu cầu cấp thiết phải đẩy nhanh phát triển nguồn thủy điện, tăng tỷ trọng thủy điện trong hệ thống điện mới, phát huy vai trò lớn hơn. Trong bối cảnh mục tiêu “carbon kép”, tổng công suất lắp đặt của điện gió và điện mặt trời sẽ đạt trên 1,2 tỷ kilowatt vào năm 2030; dự kiến ​​sẽ đạt 5 tỷ đến 6 tỷ kilowatt vào năm 2060. Trong tương lai, nhu cầu về tài nguyên điều tiết trong các hệ thống điện mới sẽ rất lớn, và phát điện thủy điện là nguồn điện điều tiết chất lượng cao nhất. Công nghệ thủy điện của Trung Quốc có thể phát triển công suất lắp đặt là 687 triệu kilowatt. Đến cuối năm 2021, đã phát triển được 391 triệu kilowatt, với tốc độ phát triển khoảng 57%, thấp hơn nhiều so với tốc độ phát triển 90% của một số nước phát triển ở châu Âu và Hoa Kỳ. Xét thấy chu kỳ phát triển của các dự án thủy điện dài (thường là 5-10 năm), trong khi chu kỳ phát triển của các dự án điện gió, điện mặt trời tương đối ngắn (thường là 0,5-1 năm, thậm chí ngắn hơn) và phát triển nhanh, nên việc đẩy nhanh tiến độ phát triển các dự án thủy điện, hoàn thành sớm nhất có thể, phát huy vai trò của mình là hết sức cấp thiết.
Có nhu cầu cấp thiết phải chuyển đổi phương thức phát triển thủy điện để đáp ứng các yêu cầu mới về cắt đỉnh trong các hệ thống điện mới. Theo các ràng buộc của mục tiêu “carbon kép”, cấu trúc cung cấp điện trong tương lai quyết định các yêu cầu to lớn về vận hành hệ thống điện để cắt đỉnh và đây không phải là vấn đề mà sự kết hợp lập lịch trình và các lực lượng thị trường có thể giải quyết, mà là vấn đề khả thi về mặt kỹ thuật cơ bản. Vận hành kinh tế, an toàn và ổn định của hệ thống điện chỉ có thể đạt được thông qua định hướng thị trường, lập lịch trình và kiểm soát vận hành trên cơ sở công nghệ khả thi. Đối với các nhà máy thủy điện truyền thống đang vận hành, có nhu cầu cấp thiết phải tối ưu hóa một cách có hệ thống việc sử dụng công suất và cơ sở lưu trữ hiện có, tăng đầu tư chuyển đổi một cách thích hợp khi cần thiết và nỗ lực hết sức để cải thiện năng lực điều tiết; Đối với các nhà máy thủy điện thông thường mới được quy hoạch và xây dựng, cần phải xem xét những thay đổi đáng kể về điều kiện biên do hệ thống điện mới mang lại, đồng thời lập kế hoạch và xây dựng các nhà máy thủy điện linh hoạt và có thể điều chỉnh với sự kết hợp của các thang thời gian dài và ngắn theo các điều kiện của địa phương. Đối với các nhà máy thủy điện tích năng, cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng trong tình hình hiện tại khi năng lực điều tiết ngắn hạn đang thiếu hụt nghiêm trọng; Về lâu dài, cần xem xét nhu cầu của hệ thống về khả năng cắt đỉnh ngắn hạn và xây dựng kế hoạch phát triển một cách khoa học. Đối với các nhà máy điện tích năng kiểu chuyển nước, cần kết hợp nhu cầu của các nguồn nước quốc gia để chuyển nước xuyên vùng, vừa là dự án chuyển nước xuyên lưu vực vừa là dự án sử dụng toàn diện các nguồn lực điều tiết hệ thống điện. Nếu cần, cũng có thể kết hợp với quy hoạch và thiết kế tổng thể các dự án khử muối nước biển.
Có nhu cầu cấp thiết phải thúc đẩy sản xuất thủy điện để tạo ra giá trị kinh tế và xã hội lớn hơn đồng thời đảm bảo vận hành kinh tế và an toàn các hệ thống điện mới. Dựa trên các ràng buộc mục tiêu phát triển về đỉnh carbon và trung hòa carbon trong hệ thống điện, năng lượng mới sẽ dần trở thành động lực chính trong cơ cấu cung cấp điện của hệ thống điện tương lai và tỷ lệ các nguồn điện carbon cao như điện than sẽ giảm dần. Theo số liệu từ nhiều viện nghiên cứu, trong kịch bản rút điện than trên diện rộng, đến năm 2060, công suất lắp đặt điện gió và điện quang của Trung Quốc chiếm khoảng 70%; Tổng công suất lắp đặt của thủy điện có tính đến tích trữ bơm là khoảng 800 triệu kilowatt, chiếm khoảng 10%. Trong cơ cấu điện tương lai, thủy điện là nguồn điện tương đối đáng tin cậy, linh hoạt và có thể điều chỉnh, là nền tảng đảm bảo vận hành an toàn, ổn định và kinh tế của các hệ thống điện mới. Cần phải chuyển đổi từ phương thức phát triển và vận hành “dựa trên phát điện, bổ sung quy định” hiện nay sang “dựa trên quy định, bổ sung quy định”. Theo đó, cần phát huy lợi ích kinh tế của doanh nghiệp thủy điện trong bối cảnh giá trị gia tăng lớn hơn, đồng thời lợi ích của doanh nghiệp thủy điện cũng phải làm tăng đáng kể doanh thu từ việc cung cấp dịch vụ điều tiết cho hệ thống dựa trên doanh thu phát điện ban đầu.
Có nhu cầu cấp thiết phải tiến hành đổi mới các tiêu chuẩn, chính sách và hệ thống công nghệ thủy điện để đảm bảo phát triển thủy điện hiệu quả và bền vững. Trong tương lai, yêu cầu khách quan của các hệ thống điện mới là phải đẩy nhanh phát triển thủy điện sáng tạo, đồng thời các tiêu chuẩn, chính sách và hệ thống kỹ thuật có liên quan hiện có cũng cần phải cấp bách tương ứng với phát triển sáng tạo để thúc đẩy phát triển thủy điện hiệu quả. Về tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật, cần khẩn trương tối ưu hóa các tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật để lập kế hoạch, thiết kế, vận hành và bảo trì dựa trên trình diễn và xác minh thí điểm theo các yêu cầu kỹ thuật của hệ thống điện mới đối với các nhà máy thủy điện thông thường, nhà máy điện tích năng, nhà máy điện lai và nhà máy điện tích năng chuyển nước (bao gồm cả trạm bơm), để đảm bảo phát triển đổi mới thủy điện có trật tự và hiệu quả; Về chính sách và hệ thống, cần khẩn trương nghiên cứu và xây dựng các chính sách khuyến khích để hướng dẫn, hỗ trợ và khuyến khích phát triển thủy điện sáng tạo. Đồng thời, cần khẩn trương xây dựng các thiết kế thể chế như giá thị trường, giá điện để chuyển đổi giá trị mới của thủy điện thành lợi ích kinh tế, khuyến khích các đơn vị doanh nghiệp tích cực triển khai đầu tư công nghệ phát triển sáng tạo, trình diễn thí điểm, phát triển quy mô lớn.

Con đường phát triển đổi mới và triển vọng của thủy điện
Phát triển thủy điện theo hướng đổi mới là nhu cầu cấp thiết để xây dựng một loại hình hệ thống điện mới. Cần tuân thủ nguyên tắc điều chỉnh các biện pháp theo điều kiện địa phương và thực hiện các chính sách toàn diện. Đối với các loại hình dự án thủy điện đã xây dựng và quy hoạch, cần áp dụng các phương án kỹ thuật khác nhau. Cần xem xét không chỉ nhu cầu chức năng phát điện và cắt đỉnh, điều chế tần số và cân bằng mà còn phải xem xét đến việc sử dụng toàn diện các nguồn nước, xây dựng tải điện có thể điều chỉnh và các khía cạnh khác. Cuối cùng, cần xác định phương án tối ưu thông qua đánh giá lợi ích toàn diện. Bằng cách cải thiện năng lực điều tiết của thủy điện thông thường và xây dựng các nhà máy điện tích năng chuyển nước liên lưu vực toàn diện (trạm bơm), có những lợi ích kinh tế đáng kể so với các nhà máy điện tích năng mới xây dựng. Nhìn chung, không có rào cản kỹ thuật nào không thể vượt qua đối với phát triển thủy điện theo hướng đổi mới, với không gian phát triển rộng lớn và lợi ích kinh tế và môi trường vượt trội. Cần chú ý nhiều hơn và đẩy nhanh phát triển quy mô lớn dựa trên các hoạt động thí điểm.

“Phát điện + bơm”
Chế độ “phát điện + bơm” là sử dụng các công trình thủy lực như nhà máy thủy điện và đập hiện có, cũng như các cơ sở truyền tải và biến đổi điện, để lựa chọn các vị trí phù hợp hạ lưu cửa xả nước của nhà máy thủy điện để xây dựng đập dẫn nước tạo thành hồ chứa dưới, bổ sung máy bơm bơm, đường ống và các thiết bị, cơ sở khác, sử dụng hồ chứa ban đầu làm hồ chứa trên. Trên cơ sở chức năng phát điện của nhà máy thủy điện ban đầu, tăng chức năng bơm của hệ thống điện khi tải thấp, đồng thời vẫn sử dụng các tổ máy phát điện tuabin thủy lực ban đầu để phát điện, Để tăng công suất bơm và tích trữ của nhà máy thủy điện ban đầu, do đó cải thiện khả năng điều tiết của nhà máy thủy điện (xem Hình 1). Hồ chứa dưới cũng có thể được xây dựng riêng tại một vị trí phù hợp hạ lưu của nhà máy thủy điện. Khi xây dựng hồ chứa dưới hạ lưu cửa xả nước của nhà máy thủy điện, nên kiểm soát mực nước để không ảnh hưởng đến hiệu suất phát điện của nhà máy thủy điện ban đầu. Xem xét tối ưu hóa chế độ vận hành và các yêu cầu chức năng để tham gia san lấp mặt bằng, nên trang bị cho máy bơm một động cơ đồng bộ. Chế độ này thường áp dụng cho việc chuyển đổi chức năng của các nhà máy thủy điện đang hoạt động. Thiết bị và cơ sở vật chất linh hoạt và đơn giản, với đặc điểm là đầu tư thấp, thời gian thi công ngắn và kết quả nhanh.

“Sản xuất điện + sản ​​xuất điện bơm”
Sự khác biệt chính giữa chế độ “phát điện + phát điện bơm” và chế độ “phát điện + phát điện bơm” là việc thay đổi bơm bơm thành đơn vị tích trữ bơm làm tăng trực tiếp chức năng tích trữ bơm của nhà máy thủy điện thông thường ban đầu, do đó cải thiện khả năng điều tiết của nhà máy thủy điện. Nguyên lý thiết lập của hồ chứa dưới phù hợp với chế độ “phát điện + phát điện bơm”. Mô hình này cũng có thể sử dụng hồ chứa ban đầu làm hồ chứa dưới và xây dựng hồ chứa trên ở vị trí thích hợp. Đối với các nhà máy thủy điện mới, ngoài việc lắp đặt một số tổ máy phát điện thông thường, có thể lắp đặt các đơn vị tích trữ bơm có công suất nhất định. Giả sử rằng sản lượng tối đa của một nhà máy thủy điện đơn lẻ là P1 và công suất tích trữ bơm tăng thêm là P2, thì phạm vi hoạt động công suất của nhà máy điện so với hệ thống điện sẽ được mở rộng từ (0, P1) đến (- P2, P1 + P2).

Tái chế các nhà máy thủy điện bậc thang
Chế độ phát triển thác đổ được áp dụng cho sự phát triển của nhiều con sông ở Trung Quốc, và một loạt các nhà máy thủy điện, chẳng hạn như sông Jinsha và sông Dadu, được xây dựng. Đối với một nhóm nhà máy thủy điện thác đổ mới hoặc hiện có, tại hai nhà máy thủy điện liền kề, hồ chứa của nhà máy thủy điện thác đổ trên đóng vai trò là hồ chứa trên và nhà máy thủy điện thác đổ dưới đóng vai trò là hồ chứa dưới. Theo địa hình thực tế, có thể lựa chọn các cửa lấy nước phù hợp và có thể tiến hành phát triển bằng cách kết hợp hai chế độ "phát điện + bơm" và "phát điện + bơm phát điện". Chế độ này phù hợp với việc tái thiết các nhà máy thủy điện thác đổ, có thể cải thiện đáng kể khả năng điều tiết và chu kỳ thời gian điều tiết của các nhà máy thủy điện thác đổ, mang lại lợi ích đáng kể. Hình 2 cho thấy bố cục của một nhà máy thủy điện được phát triển trong một thác nước của một con sông ở Trung Quốc. Khoảng cách từ vị trí đập của nhà máy thủy điện thượng lưu đến cửa lấy nước hạ lưu về cơ bản là dưới 50 km.

Cân bằng cục bộ
Chế độ “cân bằng cục bộ” là chế độ xây dựng các dự án phát điện gió và điện mặt trời gần các nhà máy thủy điện, tự điều chỉnh và cân bằng hoạt động của nhà máy thủy điện để đạt được sản lượng điện ổn định theo yêu cầu lập lịch trình. Xem xét rằng các tổ máy thủy điện chính đều được vận hành theo điều độ hệ thống điện, chế độ này có thể được áp dụng cho các nhà máy điện dòng xuyên tâm và một số nhà máy thủy điện nhỏ không phù hợp để chuyển đổi quy mô lớn và thường không được lập lịch trình như các chức năng điều chế tần số và cạo đỉnh thông thường. Sản lượng vận hành của các tổ máy thủy điện có thể được kiểm soát linh hoạt, có thể khai thác khả năng điều tiết ngắn hạn của chúng và có thể đạt được sự cân bằng cục bộ và sản lượng điện ổn định, đồng thời cải thiện tỷ lệ sử dụng tài sản của các đường dây truyền tải hiện có.

Tổ hợp điều tiết điện và nước
Chế độ “Tổ hợp điều tiết nước và điều tiết công suất đỉnh” dựa trên khái niệm xây dựng các nhà máy thủy điện tích năng điều tiết nước, kết hợp với các dự án thủy lợi lớn như chuyển nước liên lưu vực quy mô lớn, xây dựng một loạt các hồ chứa và các cơ sở chuyển hướng, và sử dụng độ dốc giữa các hồ chứa để xây dựng một loạt các trạm bơm, các nhà máy thủy điện thông thường và các nhà máy thủy điện tích năng để tạo thành một tổ hợp phát điện và lưu trữ. Trong quá trình chuyển nước từ các nguồn nước ở độ cao lớn đến các khu vực có độ cao thấp, “Tổ hợp chuyển nước và cắt đỉnh công suất” có thể tận dụng hoàn toàn độ dốc để thu được lợi ích phát điện, đồng thời đạt được khả năng chuyển nước đường dài và giảm chi phí chuyển nước. Đồng thời, “Tổ hợp cắt đỉnh công suất và nước” có thể đóng vai trò là tải có thể điều độ quy mô lớn và nguồn điện cho hệ thống điện, cung cấp dịch vụ điều tiết cho hệ thống. Ngoài ra, tổ hợp cũng có thể kết hợp với các dự án khử muối nước biển để đạt được ứng dụng toàn diện về phát triển tài nguyên nước và điều tiết hệ thống điện.

Lưu trữ bơm nước biển
Nhà máy điện tích trữ bơm nước biển có thể lựa chọn vị trí thích hợp trên bờ biển để xây dựng hồ chứa phía trên, sử dụng biển làm hồ chứa phía dưới. Với vị trí ngày càng khó khăn của các nhà máy điện tích trữ bơm thông thường, các nhà máy điện tích trữ bơm nước biển đã nhận được sự quan tâm của các bộ ngành liên quan và đã tiến hành khảo sát tài nguyên và thử nghiệm nghiên cứu kỹ thuật hướng tới tương lai. Lưu trữ bơm nước biển cũng có thể kết hợp với sự phát triển toàn diện của năng lượng thủy triều, năng lượng sóng, năng lượng gió ngoài khơi, v.v., để xây dựng các nhà máy điện tích trữ bơm có công suất lưu trữ lớn và chu kỳ điều tiết dài.
Ngoại trừ các nhà máy thủy điện dòng chảy và một số nhà máy thủy điện nhỏ không có khả năng tích trữ, hầu hết các nhà máy thủy điện có dung tích hồ chứa nhất định đều có thể nghiên cứu và thực hiện chuyển đổi chức năng tích trữ tích năng. Trong nhà máy thủy điện mới xây dựng, có thể thiết kế và bố trí một số công suất tích trữ tích năng nhất định thành một tổng thể. Theo ước tính sơ bộ, việc áp dụng các phương pháp phát triển mới có thể nhanh chóng tăng quy mô công suất cắt đỉnh chất lượng cao lên ít nhất 100 triệu kilowatt; Sử dụng "Tổ hợp điều tiết nước và cắt đỉnh điện" và phát điện tích trữ bơm nước biển cũng có thể mang lại công suất cắt đỉnh chất lượng cao cực kỳ đáng kể, có ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng và vận hành an toàn, ổn định các hệ thống điện mới, mang lại lợi ích kinh tế và xã hội to lớn.

Đề xuất đổi mới và phát triển thủy điện
Thứ nhất, tổ chức thiết kế cấp cao nhất về đổi mới và phát triển thủy điện càng sớm càng tốt và ban hành hướng dẫn để hỗ trợ phát triển đổi mới và phát triển thủy điện dựa trên công việc này. Tiến hành nghiên cứu xung quanh các vấn đề chính như tư tưởng chỉ đạo, định vị phát triển, nguyên tắc cơ bản, ưu tiên quy hoạch và bố cục phát triển đổi mới thủy điện, và trên cơ sở này lập kế hoạch phát triển, làm rõ các giai đoạn phát triển và kỳ vọng, và hướng dẫn các thực thể thị trường thực hiện phát triển dự án một cách có trật tự.
Thứ hai là tổ chức và thực hiện các dự án phân tích khả thi về mặt kỹ thuật và kinh tế, trình diễn. Kết hợp với xây dựng hệ thống điện mới, tổ chức và thực hiện khảo sát tài nguyên của các nhà máy thủy điện và phân tích kỹ thuật và kinh tế của các dự án, đề xuất các phương án xây dựng kỹ thuật, lựa chọn các dự án kỹ thuật tiêu biểu để thực hiện trình diễn kỹ thuật, tích lũy kinh nghiệm để phát triển quy mô lớn.
Thứ ba, hỗ trợ nghiên cứu và trình diễn công nghệ then chốt. Thông qua việc thành lập các dự án khoa học công nghệ quốc gia và các biện pháp khác, chúng tôi sẽ hỗ trợ các đột phá kỹ thuật cơ bản và phổ biến, phát triển thiết bị then chốt và ứng dụng trình diễn trong lĩnh vực đổi mới và phát triển thủy điện, bao gồm nhưng không giới hạn ở vật liệu cánh quạt cho tua bin bơm nước biển và bơm tích trữ, và khảo sát và thiết kế các tổ hợp truyền nước và cắt đỉnh điện khu vực quy mô lớn.
Thứ tư, xây dựng chính sách tài chính, thuế, phê duyệt dự án và chính sách giá điện để thúc đẩy phát triển thủy điện sáng tạo. Tập trung vào mọi khía cạnh của phát triển sáng tạo sản xuất thủy điện, các chính sách như chiết khấu lãi suất tài chính, trợ cấp đầu tư và ưu đãi thuế nên được xây dựng theo các điều kiện của địa phương trong giai đoạn đầu phát triển dự án, bao gồm hỗ trợ tài chính xanh, để giảm chi phí tài chính của dự án; Đối với các dự án cải tạo hồ chứa thủy điện không làm thay đổi đáng kể các đặc điểm thủy văn của sông, nên thực hiện các thủ tục phê duyệt đơn giản hóa để giảm chu kỳ phê duyệt hành chính; Hợp lý hóa cơ chế giá điện công suất cho các đơn vị hồ chứa thủy điện và cơ chế giá điện cho sản xuất điện bơm để đảm bảo lợi nhuận giá trị hợp lý.


Thời gian đăng: 22-03-2023

Gửi tin nhắn của bạn cho chúng tôi:

Viết tin nhắn của bạn ở đây và gửi cho chúng tôi